Nghĩ rằng ung thư có thể lây hoặc là hình phạt của Chúa trời, nhiều người châu Á giấu giếm bệnh tật và chỉ đến bệnh viện khi đã muộn.
Bác sĩ Cannas Kwok mới 14 tuổi khi mẹ bà qua đời vì ung thư vú vào năm 1983 ở Hong Kong. Giờ đây, dù đã chuyển tới Sydney, Australia, nữ bác sĩ 50 tuổi vẫn nhớ lại những ngày mẹ mình không thể ăn, ngủ hay thở.
Kể lại với SCMP, bác sĩ Kwok cho biết khi mẹ bà bị bệnh, ung thư là chuyện riêng và chỉ được đề cập đến trong phạm vi gia đình. Khi tới Sydney vào năm 1993, Kwok nhận thấy chính phủ Australia nỗ lực thúc đẩy sàng lọc ung thư vú thông qua áp phích, quảng cáo trên truyền hình và mạng xã hội. Thế nhưng, những phụ nữ gốc Á còn rất e dè.
"Đó là lý do tôi thực hiện đề tài tiến sĩ vai trò của văn hóa trong hành vi sàng lọc ung thư vú", Kwok nói.
Được đăng tải trên tờ Australian and New Zealand Journal of Public Health, nghiên cứu của bác sĩ Kwok chỉ ra người Australia gốc Á có tỷ lệ mắc ung thư cao. Hơn nữa, lúc được phát hiện, hầu hết đã bước sang giai đoạn nặng.
Xu hướng trên cũng xuất hiện ở người nhập cư Mỹ gốc Á. Viện Phòng tránh Ung thư California phát hiện tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ Mỹ gốc Á tăng liên tục từ năm 1988 đến 2013.
Tại Canada, nghiên cứu do Bệnh viện Đại học Phụ nữ và Viện Dịch vụ Đánh giá Lâm sàng tiến hành kết luận người gốc Á là nhóm ít sàng lọc ung thư vú nhất do rào cản ngôn ngữ, sự kỳ thị văn hóa và mạng lưới hỗ trợ yếu kém.
Ảnh: MIMS General News. |
Làm nhiệm vụ trợ giúp bệnh nhân ung thư ở Manchester, Nabila Farooq 52 tuổi, một người Anh gốc Pakistan gặp không ít phụ nữ Đông Nam Á cố giấu giếm thân nhân về tình trạng sức khỏe. Bà Farooq cho biết quyết định này xuất phát từ nỗi lo ung thư vú có thể di truyền hoặc niềm tin căn bệnh do chúa trời trừng phạt.
"Một số phụ nữ tin rằng họ sẽ không bị ung thư vú nếu chung thủy với chồng", bác sĩ Kwok tiết lộ. "Đối với chuyên gia y tế, điều này thật vô lý nhưng quan niệm này vẫn đeo bám nhiều chị em".
Judi Mark 62 tuổi chuyển từ Hong Kong đến Canada từ nhỏ. Do sống tại Montreal, nơi tiếng Pháp là ngôn ngữ chính, bố của bà không thể giao tiếp với bác sĩ khi bị ung thư gan.
Ngoài khó khăn ngôn ngữ, bốn thành viên khác trong gia đình Mark cũng qua đời vì ung thư khiến người xung quanh tưởng rằng bệnh có thể lây lan. "Một người bạn Trung Quốc của chị tôi không dám đến thăm chị nữa vì sợ lây ung thư", bà Mark nhớ lại. "Thật đau đớn. Chúng tôi không thể xua đi sự kỳ thị và chị tôi bị trầm cảm".
Jenny Truong 24 tuổi, người Canada gốc Việt thì kể rằng ung thư trở thành chủ đề "không được nhắc đến" từ ngày ông cô bị ung thư tuyến tiền liệt. Theo bà Grace Yoo, chuyên gia nghiên cứu người Mỹ gốc Á tại Đại học Bang San Francisco, phần lớn người cao tuổi gốc Á vẫn nghĩ ung thư là bản án tử hình vì thiếu hiểu biết.
Trước tình trạng trên, một số cá nhân và tổ chức quyết định hỗ trợ người gốc Á thay đổi. Bà WaiLo Li, một phụ nữ quốc tịch Anh gốc Trung Quốc chia sẻ video thân nhân ôm hôn người mẹ bị ung thư vú giai đoạn IV của mình nhằm khuyến khích cộng đồng cởi mở hơn về căn bệnh. Các tổ chức như Joylife Club (Mỹ) và Asian Breast Cancer Support Group (Anh) tổ chức những buổi gặp mặt để cải thiện cảm xúc, tâm lý cho bệnh nhân ung thư gốc Á.
"Mọi người cần hiểu về ung thư cùng các dấu hiệu, triệu chứng của nó và trò chuyện một cách thẳng thắn, không sợ hãi", bà Farooq nhấn mạnh.
Gần đây, chị gái bác sĩ Kwok đang sống tại Hong Kong được chẩn đoán ung thư vú khiến những ký ức về người mẹ đã khuất tràn về với bà.
"Niềm tin về ung thư vẫn chưa thay đổi", bác sĩ Kwok trải lòng. "Bất chấp những tiến bộ về kỹ thuật điều trị và tỷ lệ sống ngày càng cao, ung thư dường như vẫn là án tử".
Bác sĩ Kwok thừa nhận rất khó thay đổi suy nghĩ thế hệ trước về ung thư. Thế nhưng, thế hệ trẻ chắc chắn sẽ tạo nên sự khác biệt nếu được tìm về những người chiến thắng ung thư cũng như gia đình họ.
Nguồn VnExpress