Ý nghĩa khí và khí hoá của y học phương Đông trong dưỡng sinh phòng bệnh
Từ đầu thế kỷ XIX, nhiều nhà khoa học phương Tây đã bắt đầu nghiên cứu về bản chất của khí và khí hoá mà y học phương Đông đã từng đề cập. Hiểu rõ được bản chất và đặc điểm của khí có thể giúp chúng ta điều chỉnh hành vi và sinh hoạt để giữ gìn sức khoẻ và gia tăng chất lượng cuộc sống.
Khí là gì?
Những nhà khí công cổ đại quan niệm rằng trong không gian bao la của vũ trụ luôn tồn tại một dạng năng lượng vi tế, là nguồn gốc của sự sống. Tuỳ theo mỗi nền văn hoá mà loại năng lượng này được gọi những tên gọi khác nhau như khí, thiên khí hoặc địa khí (Trung Hoa), Prana (ấn độ) hoặc Ki hay Hado (Nhật). Những nghiên cứu của khoa học phương Tây cũng cho thấy thế giới chất rắn cụ thể mà chúng ta nhìn thấy được bao quanh và thấm đẫm bởi một loại năng lượng tựa như chất lỏng luôn bức xạ và chuyển động không ngừng. Hai tiến sĩ John White và Stanley Kripper mô tả trường năng lượng này thấm nhuần và liên kết mọi vật lại với nhau, chúng chuyển động tựa như một chất lỏng chảy từ vật nọ sang vật kia. Loại năng lượng này chính là một yếu tố quan trọng tạo nên sự đồng nhất của mọi sự vật, thường được gọi là Thiên nhân hợp nhất hay Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Khí công hay các công phu dưỡng sinh có thể xem như là những phương pháp tập luyện nhằm giúp con người vận dụng và phát huy tính hợp nhất này vào mục đích trị bệnh hoặc tăng cường sức khoẻ. Trong cơ thể con người, phần khí thường được gọi là chân khí hoặc nội khí. Nội khí là một dạng vật chất tinh vi lưu hành khắp phủ tạng, kinh lạc, để duy trì hoạt động sống của cơ thể con người. Nội khí được tạo thành bởi ba thành phần cơ bản. Khí tiên thiên được hấp thu từ tinh huyết của cha mẹ từ lúc sinh ra. Khí hậu thiên do Tỳ Vị chuyển hoá từ thức ăn thức uống hàng ngày. Thành phần còn lại là thiên khí hoặc địa khí do cơ thể hấp thu từ vũ trụ bên ngoài. Như vậy, trong khi chúng ta không thể thay đổi được khí tiên thiên thì ngược lại có thể cải thiện điều kiện sinh hoạt, ăn uống để bồi dưỡng khí hậu thiên, và thông qua tập luyện dưỡng sinh để tăng cường hấp thu thiên, địa khí cho yêu cầu dưỡng sinh ích thọ.
Tương quan giữa khí hoá và vật chất
Khí hoá là một hiện tượng xuyên suốt trong mọi hoạt động sống của con người. Giống như nước có thể đông lại thành đá, cũng có thể bay lên thành hơi nước, y học phương Đông quan niệm năng lượng và vật chất, phần khí và phần hình vốn dĩ chỉ là hai dạng khác nhau của cùng một thể. Tụ lại thành hình, tán ra hoá khí. Những nghiên cứu vật lý cũng cho thấy vật chất tồn tại có hai hình thức. Một loại là thực thể do những hạt cơ bản cấu tạo nên. Loại kia ở trạng thái trường mà cơ quan cảm giác của con người thường không thể nhận biết được. Hình và trường không tách rời nhau và trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong cơ thể con người, do sự chuyển hoá giữa hai yếu tố nên những uất khí ngưng kết lâu ngày có thể tạo thành ung nhọt. Ngược lại, tác động khí hoá của khí công hoặc ý niệm có thể làm tan chỗ kết tụ, tán sỏi hoặc tiêu u xơ. Đối với cơ chế sinh bệnh, những rối loạn về cảm xúc hoặc những khắc nghiệt của môi trường có thể tác động đến phần khí làm rối loạn hoạt động chức năng của các cơ quan. Qua thời gian, nếu sức đề kháng kém hoặc điều kiện sinh hoạt không được cải thiện thì rối loạn khí hoá ban đầu sẽ dẫn đến những tổn thương thực thể và gây ra những bệnh tật nghiêm trọng hơn. Ngược lại, ở một người có sức khoẻ tốt, có khả năng điều hoà cảm xúc hoặc thường luyện tập dưỡng sinh để nâng cao ngưỡng chịu đựng của cơ thể thì người này sẽ dễ dàng hoá giải những bất lợi của môi trường để giữ gìn sức khoẻ.
Sự tương tác giữa những trường năng lượng con người
Từ thế kỷ XII, hai nhà thông thái Boirac và Liebeault đã cho rằng trong cơ thể con người tiềm tàng một loại năng lượng có thể gây tương tác từ xa. Có người chỉ cần sự có mặt của họ cũng có thể gây ảnh hưởng khoẻ mạnh hoặc không đối với người khác. Đến đầu thế kỷ XIX, Von Reichenbach đã trải qua gần 30 năm để nghiên cứu về loại năng lượng liên quan đến con người. Các thí nghiệm của ông cho thấy năng lượng con người vừa có tính hạt giống như chất lỏng, vừa có tính sóng giống như ánh sáng. Nó có tần số ở khoảng giữa vùng màu đỏ và máu tím xanh của dãy quang phổ. Ông cũng mô tả được tính phân cực của loại năng lượng trong cơ thể người giống như nguyên lý âm dương được đề cập trong y học phương Đông. Năm 1911, tiến sĩ William Kilner đã mô tả kỹ hơn về diện mạo của loại trường khí xuyên suốt và bao quanh cơ thể con người. Đó là một màng sương mờ gồm ba lớp. Lớp trong cùng màu sẫm hơn hai lớp kia, ở sát mặt da, dày khoảng 1/4 inch. Lớp giữa giống như khí hơi nước, dầy khoảng 1 inch. Lớp ngoài cùng có màu sáng nhạt hơn, có đường bao quanh không rõ rệt, vượt ra khỏi lớp trong khoảng 6 inch. Tiến sĩ Victor Inyushin thuộc trường Đại học Kazakh ở Nga đã tiến hành nghiên cứu về trường năng lượng này từ những năm 1950. Ông cho biết trường này gồm những ion, proton và các electron tự do. Một phần của đám mây năng lượng này bức xạ ra bên ngoài, chuyển dịch trong không khí và có thể ảnh hưởng đến các sinh thể chung quanh. Trên thực tế, nền văn hoá cổ phương Đông đã nói đến những vòng hào quang bao quanh cơ thể con người từ hàng ngàn năm về trước. Ngành khí công cũng đã có truyền thống chữa bệnh không tiếp xúc thông qua tương tác khí hoá từ xa. Một trong những nguyên tắc chữa bệnh bằng khí công là sự hoà hợp giữa người chữa và người bệnh. Người chữa sẽ dùng năng lực của tư tưởng để tạo nên sự hợp nhất giữa trường khí năng lượng của mình và trường khí của người bệnh. Trong quá trình này, trường khí cân bằng và ổn định của người chữa sẽ tác động điều chỉnh trường khí rối loạn và mất cân bằng của người bệnh. Hiệu quả chữa bệnh và liệu trình dài hay ngắn sẽ tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và năng lực khí công của người thầy. Những thầy thuốc Đông y thực hành châm cứu, bấm huyệt cũng hiểu rằng chân khí sung mãn của thầy thuốc sẽ tác động rất hửu ích cho công tác điều trị bệnh nhân. Ngược lại, người thầy cũng dễ bị trược khí, tức khí bệnh từ người bệnh truyền sang. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta có cảm giác khó chịu, mệt mỏi, ê ẩm hoặc thậm chí đau tức ở đâu đó trong cơ thể sau khi đi viếng đám tang hoặc tiếp xúc lâu với một người, nhất là những người bệnh nặng. Điều này có thể là do tương tác sinh học giữa các trường khí gây ra. Đối với người có sức đề kháng tốt, sự khó chịu sẽ tự biến mất sau vài khắc hoặc vài giờ rời khỏi hiện trường. Một vài trường hợp nặng hơn, dân gian có cách hoá giải bằng cách “xông hơi giải cảm” để đuổi trược khí ra khỏi cơ thể qua đường mồ hôi. Quy luật về tương tác sinh học cũng thể hiện trong nhiều mặt khác nhau của cuộc sống. Một người, nhất là những người có ý chí mạnh, có thể tạo ra những ảnh hưởng tâm lý trên những người chung quanh. Sự buồn bã, ủ rũ có thể kéo theo sự bi lụy của những người bên cạnh. Sự tức giận có thể kích động người khác tức giận theo. Hiệu ứng đám đông không chỉ là hiệu ứng tâm lý mà còn là do tính tương tác và sự cộng hưởng của những trường khí sinh học. Điều này có thể giải thích tại sao trường khí hiền hoà của một thiền sư có thể nhiếp phục một con hổ dữ hoặc tại sao một số người cảm thấy an tịnh hoặc ngồi thiền, vận khí dễ dàng khi ở bên cạnh người thầy hoặc khi cùng tập với một tập thể.
(Còn nữa)
Võ Hà (CTQ số 94)